Xuất hiện từ rất sớm và được con người thuần hóa để trở thành vật nuôi thân thiết trong mỗi gia đình, loài mèo không chỉ phổ biến với tư cách là "thú cưng" của nhiều bạn nhỏ mà còn là một hình tượng lớn trong dòng chảy văn hóa sinh động.
Xuất hiện từ rất sớm và được con người thuần hóa để trở thành vật nuôi thân thiết trong mỗi gia đình, loài mèo không chỉ phổ biến với tư cách là “thú cưng” của nhiều bạn nhỏ mà còn là một hình tượng lớn trong dòng chảy văn hóa sinh động.
Nhắc đến mèo, xưa nay dân gian thường khoác lên nó bao nhiêu tính xấu; mượn hình ảnh để ví von, so sánh với những hành động, thói quen phi chuẩn mực; nhưng đồng thời cũng gửi gắm trong đó nhiều triết lý sâu xa…
Thật tội nghiệp cho mèo khi là con vật hiếm hoi trong 12 con giáp chịu nhiều “định kiến” đến vậy. Điển hình ở bức tranh Đông Hồ nổi tiếng “Đám cưới chuột”, con mèo đại diện cho một thế lực thống trị, bóc lột khiến lũ chuột thấp cổ bé họng phải lo lót hậu hĩnh (biếu mèo con chim, cá chép bự) hòng yên bề cưới hỏi (ngụ ý sự bất công trong chế độ phong kiến, cổ hủ). Bởi thế mới có bài ca dao chửi xéo loài mèo đầy thâm thúy: “Con mèo mà trèo cây cau/ Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà/ Chú chuột đi chợ đàng xa/ Mua mắm mua muối giỗ cha con mèo”.
Cũng không hiểu vì đâu, trong văn học dân gian, mèo trở thành “tấm bia”, “vật hy sinh” cho người đời gửi gắm nhiều thông điệp cuộc sống. Ở đấy, khi thì chê bai ý nhị các thói hư tật xấu; lúc khác lại là lời nhắc nhở, khuyên răn; đồng thời, phản ánh đa dạng các vỉa tầng đời sống sinh hoạt giàu triết lý.
Muốn chê bai các thói tật, mai mỉa các hạng người thiếu đứng đắn, thành ngữ có câu: “Mèo mả gà đồng”; “Mèo già hóa cáo” (hạng người tinh ranh nguy hiểm, quỷ quyệt); “Mèo đàng chó điếm” (người bịp bợm ăn chơi đàng điếm linh tinh); “Chó khô mèo lạc” (ám chỉ người vô học, lang thang, gây họa cho xã hội). Còn những ví von như: “Ăn cơm mèo, nói leo các cụ”; “Ăn như rồng cuốn, nói như rồng leo, làm như mèo mửa” ngụ ý phê phán hạng người chỉ ham ăn, ham nói dóc, còn làm thì rất dở; “Chưa học bắt chuột đã học ỉa bếp” để chê bai người chưa biết làm thành thạo một công việc đã làm ẩu, làm dối; đả kích thói xấu của loại người không tự thấy mình xấu mà chỉ đi soi mói cái xấu của người khác, ca dao gửi gắm đầy tinh tế “Mèo già chê chó lắm lông/Chó cười lại bảo: kém ông cha mày”.
Để răn dạy, nhắc nhở đường ăn nết ở ở đời, dân gian rất khéo léo khi sử dụng hình ảnh mèo qua các câu thành ngữ, tục ngữ như: Chỉ sự bất hòa của anh em trong gia đình, có câu “Anh em như chó với mèo”; mô tả thói chủ quan, tự mãn, có “Mèo khen mèo dài đuôi”; nhắc nhở về tính cẩn thận, cảnh giác thì “Chó treo mèo đậy”; để chỉ những hành động dại dột, liều lĩnh, nguy hiểm thì “Mèo vờn chuột” hay “Chuột gặm chân mèo”. Ngoài ra, để chọn việc vừa sức mình, dân gian khuyên “Mèo nhỏ bắt chuột con”; lúc khác, để can ngăn sự táo bạo, lại có câu “Mèo nhỏ lại bắt chuột to”; ám chỉ một sự phô bày hớ hênh dễ kích thích cho kẻ xấu đánh cắp là “Mỡ để miệng mèo”; khi chỉ một hành động kiêu ngạo, tự cao tự đại của ai đó thì được khuyến cáo “Chưa biết mèo nào cắn mỉu nào”…
Đi vào các phương diện đời sống, mèo cũng trở thành đối trọng khi so sánh hoặc nói thay một hiện tượng cá nhân hay xã hội nào đấy: “Tiu nghỉu như mèo mất tai” nói lên sự buồn bã, thất vọng; “Cơm treo mèo nhịn đói” nói về các nguồn lực không được sử dụng đúng mục đích, gây ra sự lãng phí; “Mèo mù vớ cá rán” lại nói về sự gặp may bất ngờ trong cuộc sống; chỉ sự thèm thuồng, háo hức một cách quá lộ liễu thì “Như mèo thấy mỡ”; khi muốn ám chỉ, cạnh khóe đã có các câu “Chửi mèo quèo chó” hoặc “Chửi chó mắng mèo”…
Ngoài ra, cũng bằng ca dao, đồng dao, thành ngữ…, dân gian đã gửi gắm vào hình tượng mèo những triết lý nhân sinh sâu sắc. “Mèo ngao cắn cổ con cầy/ Con cầy vật chết cả bầy mèo ngao” (nhắc khéo kẻ yếu không nên tranh giành, gây sự với kẻ mạnh hơn mình để tránh tổn thất không cần thiết); “Con mèo xán vỡ nồi rang/ Con chó chạy lại mà mang lấy đòn” (nói về sự oái oăm khi kẻ làm sai, gây ra hậu quả nhưng láu cá, nhanh lẹ tránh né để kẻ khác phải chịu tội thay cho mình); “Con mèo con mẻo con meo/ Muốn ăn thịt chuột thì leo xà nhà”(ngụ ý khuyên con người muốn có cái ăn thì phải làm việc, lao động cực nhọc chứ không ai đưa sẵn, bày sẵn cho ăn cả); “Mèo nằm bồ lúa vênh râu/ Thấy con chuột chạy ngóc đầu kêu ngao” (nhắc nhở hạng người biếng nhác dù điều kiện làm việc thuận lợi, miếng ăn đến miệng mà không chịu lấy ăn). Còn nữa, đó là lời cảnh báo trước sự vô cảm đối với hành động xấu, cái sai phạm: “Mèo tha miếng thịt thì đòi/ Kễnh tha con lợn mắt coi trừng trừng/ Mèo tha miếng thịt xôn xao/ Kễnh tha con lợn thì nào thấy chi”…
Vài dòng tản mạn sẽ khó có thể kể hết chuyện mèo - loài vật đã gắn bó bền chặt trong văn hóa lẫn đời sống người Việt ta xưa nay. Mặc dù được “gán” cho bao tính xấu nhưng không thể phủ nhận sự đóng góp lớn lao của loài vật này làm cho kho tàng văn học dân gian thêm đồ sộ. Sự hiện diện của mèo thật đáng quý khi “sắm vai” vô cùng sinh động, nhờ đó để lại cho chúng ta nhiều bài học mà ngẫm ngợi và sửa sang bản tính, tâm hồn mình.
Ngô Thế Lâm