Sự phân chia giữa các đơn vị hành chính thuộc về các thể chế quản lý nhưng sông thì không có, sông cứ chảy theo dòng của nó từ thượng nguồn và xuôi ra biển.
[links()]Sự phân chia giữa các đơn vị hành chính thuộc về các thể chế quản lý nhưng sông thì không có, sông cứ chảy theo dòng của nó từ thượng nguồn và xuôi ra biển.
Sông Đồng Nai đoạn chảy qua cầu Hóa An (TP.Biên Hòa) |
Và cứ gắn với con sông nơi bến nước, bãi bồi hay gò nổng, núi cao là con người nương theo địa thế đó mà sinh tồn bằng nhiều cách như lập làng cư trú, săn bắn, hái lượm, trồng trọt, đánh bắt và thực hành tín ngưỡng với thế giới thần linh của mình.
Người xưa ở ven sông…
Dấu tích của con người cổ hàng nhiều thế kỷ trước Công nguyên ven sông vẫn còn nhiều, ẩn giấu đâu đó trong những tầng đất mà những phát hiện khảo cổ chỉ là một trong những số ít phản ánh sự hiện diện của con người xưa. Những nhà địa chất người Pháp và nghiên cứu khảo cổ học của Việt Nam đã phát hiện, khai quật những địa điểm cư trú, công xưởng… của con người xưa trên lưu vực sông Đồng Nai. Trong đó có những di chỉ đáng chú ý như Suối Linh, cù lao Rùa, Bến Đò, Mỹ Lộc, Dốc Chùa, An Sơn, Rạch Núi, Phước Tân, Bình Đa, Gò Me, Cái Vạn, Rạch Lá, Rạch Lăng…
Rất nhiều hiện vật được thu thập từ các chất liệu đá, gốm, xương, sừng, đồng… phản ánh sự đa dạng về loại hình công cụ, vũ khí, trang sức của người xưa. Họ đã xuất hiện, tụ cư trong những địa điểm ven đồi, ven sông, nơi cửa sông “giao nước” với các hoạt động săn bắn, hái lượm, trồng trọt, đánh bắt… trong một thời đoạn lịch sử khá dài.
Sông Đồng Nai và lưu vực của nó cũng như bao con sông khác, ẩn chứa nhiều điều lý thú về sự chinh phục của cư dân cổ trong quá trình sinh tồn mà các đền tháp chỉ là một phần của bức tranh đầy màu sắc. |
Những vết tích cư trú của người cổ ven sông rất nhiều và được biết đến ở các địa bàn thuộc nhiều tỉnh Đông Nam bộ qua khai quật khảo cổ học, được đúc kết để khái quát về một nền văn hóa của cư dân thời nguyên thủy. Những gì còn lại của người xưa là những sưu tập trong các bảo tàng địa phương và còn ẩn khuất đâu đó chưa tìm thấy.
Một dấu tích khá độc đáo ở cù lao Rùa giữa sông Đồng Nai (nay thuộc xã Thạnh Hội, TX.Tân Uyên, tỉnh Bình Dương). Trên cù lao Rùa, từ thế kỷ XIX, các nhà địa chất Pháp đã phát hiện một số di vật về người cổ. Sau năm 1975, qua các những lần thám sát, và đặc biệt hai cuộc khai quật khảo cổ đã thu nhận được hàng ngàn hiện vật các chủng loại về dấu tích cư trú, mộ táng của con người tiền sử với niên đại: giai đoạn sớm từ 3.500-3.000 và muộn từ 3.000-2.700 năm cách ngày nay. Di chỉ khảo cổ cù lao Rùa được xếp hạng vào danh sách các di tích khảo cổ học cấp quốc gia vào năm 2009.
Chính dòng sông Đồng Nai là điều kiện thuận lợi để cư dân xưa tạo nên nguồn sống. Đặc biệt, nơi một làng cổ ven sông có địa danh Bình Đa (nay thuộc P.An Bình, TP.Biên Hòa), cuộc khai quật vào năm 1979 đã phát hiện một sưu tập những thanh đoạn đàn đá có niên đại cách đây hơn 3.000-2.700 năm. Nhiều di chỉ khảo cổ khác ven sông còn tìm thấy những dấu ấn tiêu biểu với những hiện vật khá độc đáo… Nhưng ở đây, chúng ta chỉ nhắc đến con người xưa ven sông Đồng Nai với loại nhạc cụ đàn đá. Chắc chắn, người cổ đã vất vả, cực nhọc giữa muôn trùng khó khăn để đảm bảo sự sinh tồn và chính trong cuộc sống đó, cũng chính họ đã làm nảy sinh sự cảm thụ về âm nhạc bởi những thanh đá được chế tác thời “nguyên thủy, hồng hoang”.
Cách đây hơn 3.000 năm, để làm cho những thanh đá vang lên đúng tiếng nhạc, chắc chắn những người chủ tâm chế tác có bàn tay khéo léo, sự cảm thụ tinh tế về âm thanh, đã trải qua những tìm tòi, thử nghiệm, dày công đục đẽo, chỉnh hình, chỉnh âm. Chúng ta có thể hình dung về một cộng đồng dân cư ven sông của Đồng Nai, sau những mùa vụ trồng trọt, cùng hòa niềm vui với nhau những dịp lễ hội với điệu nhảy, âm thanh từ dàn nhạc đàn đá vang lên trong ánh lửa bập bùng. Chính đó là môi trường xã hội được nâng cao của người cổ, phản ánh sự cảm thụ văn hóa, nghệ thuật tinh tế.
Bí ẩn của đền đài
Sông Đồng Nai ở khu vực ranh giới giữa Lâm Đồng - Đồng Nai vốn là rừng núi, nhiều đỉnh núi nên từ trên cao nhìn xuống, sông như con rắn màu trắng uốn lượn quanh co giữa đại ngàn xanh thẳm. Những đồi núi ven sông của miệt rừng này - bây giờ nằm trong phạm vi của rừng quốc gia Cát Tiên để lại những dấu tích khảo cổ quan trọng của những con người sinh sống cách đây hàng ngàn năm. Nhiều dấu tích của đền đài về con người xây dựng dưới chân núi, ven đồi hay lưng chừng hoặc trên đỉnh cao đã được phát hiện qua thám sát, khai quật khảo cổ như: Rạch Đông, Cây Gáo, Miễu Ông Chồn, Nam Cát Tiên, Đạ Lắk… (Đồng Nai), đặc biệt là quần thể di tích Cát Tiên trên địa bàn H.Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng, tả ngạn khu vực sông Đồng Nai.
Du khách tham quan Linga - Yoni lớn nhất Đông Nam Á tại di tích khảo cổ Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng. Ảnh: TL |
Tôi đến với khu di tích này 2 lần trong những ngày đang khai quật và nhiều lần khi dẫn sinh viên thực tập, điền dã. Một quần thể đền đài với kiến trúc được phát lộ trải dài trên một diện tích khá rộng. Trên đỉnh đồi núi cao là phế tích của một đền tháp với bệ thờ Linga - Yoni lớn bằng đá (biểu tượng sinh thực khí) trong tín ngưỡng Balamôn được cho là ảnh hưởng của nền văn hóa Ấn Độ cổ đại. Bộ ngẫu tượng với kích thước lớn và ước nặng khoảng 4 tấn này được xác định lớn nhất trong các số Linga - Yoni phát hiện ở Đông Nam Á. Phía dưới những trảng đất bằng hoặc gò thấp là kiến trúc hỗn hợp gạch, đá của một hệ thống các đền tháp kéo dài được phát lộ. Trong các khu đền đài này, phát hiện nhiều hiện vật bằng đá, đồng, gốm, thủy tinh, vàng, bạc… Nhiều mảng được khắc họa hoa văn tỉ mỉ với nhiều đề tài. Các mảnh vàng mỏng được khắc hoa, tượng linh thú, vật linh, thần linh và những bệ tượng Linga - Yoni nhiều chất liệu (đá, vàng, đồng, thủy tinh)…
Không ít người sẽ đặt câu hỏi, tại sao giữa vùng núi bạt ngàn cách đây hơn mười mấy thế kỷ, những cư dân nào đã xây dựng nên đền tháp, làm sao có thể chuyển đến, đưa lên những bệ đá lớn, số lượng gạch nhiều đến chóp núi như vậy… Nhiều lý giải nhưng tất cả đều ngưỡng mộ về sức mạnh đoàn kết, sự tài hoa và tín niệm mạnh mẽ của con người xưa. Từ trên đỉnh cao của chóp núi tôi nhìn về phía sông Đồng Nai uốn lượn quanh các thung lũng, chắc chắn, chính từ dòng sông này là huyết mạch, phương tiện để kéo cư dân trụ lại, chuyên chở nguyên vật liệu, chọn lựa địa điểm xây dựng đền thiêng trong vùng đất thánh Cát Tiên.
Khu di chỉ Cát Tiên có thể được xem là trung tâm và ngoại vi của nó có thể tìm thấy một hệ thống đền tháp khác đã giấu mình trong sự vần xoay của thời cuộc, sự che mờ bởi thời gian và môi trường… cho đến khi con người phát hiện. Dọc sông Đồng Nai là một ngoại vi của Cát Tiên với nhiều đền tháp mà tôi đã có lần đến công trường khai quật Đạ Lắk bên hữu ngạn Đồng Nai gần đó cũng như một số di chỉ khác qua tư liệu.
Những ngọn núi, đồi, gò ven sông Đồng Nai trải dài trong dòng chảy cho đến bờ thác Trị An xưa có nhiều vết tích đền tháp. Một số đã khai quật, thu thập nhiều hiện vật ở các cơ quan nghiên cứu, nhiều hiện vật quý hiếm góp phần làm rõ những dấu tích văn hóa cổ. Dưới lòng hồ Trị An, một số di chỉ ở khu vực Cây Gáo đã được khai quật trước khi bị nhấn chìm bởi lớp nước mênh mông khi hoàn tất đập ngăn nước của công trình thủy điện lớn nhất miền Nam xây dựng từ thập niên 80 của thế kỷ XX...
Ghi chép của Phan Đình Dũng
Bài 4: Những bộ sưu tập dưới lòng sông