Báo Đồng Nai điện tử
En

Bài 1: Chủ quyền của Việt Nam từ minh chứng lịch sử

10:09, 05/09/2011

Với hơn 1.000 đảo lớn nhỏ phơi mình giữa Biển Đông, quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam từ thế kỷ XVII. Ở nơi ấy, từng tấc đảo, từng cánh sóng thấm đẫm mồ hôi, công sức, xương máu của nhiều thế hệ người lính.

 

Bia ghi nhớ đảo Trường Sa thuộc tỉnh Tuy Phước, nay là tỉnh Khánh Hòa.
Bia ghi nhớ đảo Trường Sa thuộc tỉnh Tuy Phước, nay là tỉnh Khánh Hòa.

Với hơn 1.000 đảo lớn nhỏ phơi mình giữa Biển Đông, quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam từ thế kỷ XVII. Ở nơi ấy, từng tấc đảo, từng cánh sóng thấm đẫm mồ hôi, công sức, xương máu của nhiều thế hệ người lính. Với ý nghĩa chân chính là bảo vệ bờ cõi lãnh hải chủ quyền Tổ quốc, Trường Sa và những người lính nơi này chưa một phút bình yên.

 

Tất cả các bản đồ địa lý của Việt Nam đều ghi nhận “Bãi cát vàng” (quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa) là lãnh thổ của Việt Nam từ đầu thế kỷ XVII.

* Trường Sa và Hoàng Sa là của Việt Nam

Cách đây hơn 6 thế kỷ, trên quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa đã có ngư dân sinh sống. Trong tài liệu “Thiên Nam Tứ Chí lộ Đồ thư” của Đỗ Bá viết vào đầu thế kỷ XVII đã xác nhận rằng: “Chúa Nguyễn đã lập nên đội Hoàng Sa để khai thác quần đảo”. Tài liệu nêu rõ: “Ngoài khơi biển đông nước Nam có một quần đảo cồn cát dài khoảng 400 lý, rộng 20 lý nhô lên từ đáy biển, gọi là bãi cát vàng. Mỗi năm, vào cuối mùa đông, chúa Nguyễn đều cho một hạm đội gồm 18 thuyền viên ra đảo để thu thập những hóa vật, đem về một số lớn vàng bạc, tiền tệ, súng đạn. Đây là di chứng của ngư dân đi thuyền bị đắm trôi dạt vào đảo”.

   Việt Nam đã khám phá và biết đảo Trường Sa, Hoàng Sa ít nhất từ thế kỷ XV và sinh sống tại đây từ nhiều thế kỷ. Đến thế kỷ XVII, chính quyền nhà Nguyễn đã biết tổ chức khai thác đảo có hệ thống. Đây là dấu ấn kiên định mang tính chất ý nghĩa lịch sử, khẳng định chủ quyền Trường Sa, Hoàng Sa là của Việt Nam.

  Dấu ấn sớm nhất được ghi lại sự có mặt của ngư dân Việt Nam ở quần đảo Trường Sa có từ năm thứ ba trước Công nguyên. Đó là một số đông đảo người dân đánh cá, đa số là cư dân cổ của Việt Nam. Họ đến đây để đánh cá mang về đất liền bán hoặc trao đổi lấy lương thực, thực phẩm. Thời gian sinh sống ở đảo từ 5 tháng đến 3 năm/đợt. Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, không chỉ có ngư dân Việt Nam mà thủy thủ từ một số nước lớn ở châu Âu, như: Richard Sparetly, Wiliam Sparetly cũng đến quần đảo Trường Sa, nhưng đã tự rút lui sau khi có sự phản kháng từ phía nhà Nguyễn của Việt Nam. Đó là vào năm 1883.

  Tất cả các bản đồ địa lý của Việt Nam đều ghi nhận “Bãi cát vàng” (quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa) là lãnh thổ của Việt Nam từ đầu thế kỷ XVII. Trong cuốn “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn, Hoàng Sa và Trường Sa được xác định rõ thuộc về địa danh tỉnh Quảng Ngãi. Đó là nơi ngư dân Việt Nam có thể đến khai thác các sản phẩm biển và các đồ vật còn sót lại từ các vụ đắm tàu. Cũng ở thế kỷ XVII, dưới triều nhà Lê, quần đảo Trường Sa là nơi hội tụ giao thương kinh tế. Các hoạt động giao thương kinh tế ấy được tiếp nối liên tục suốt thế kỷ thứ XVIII.

  Từ sự minh chứng chủ quyền lịch sử, ngày 7-7-1951, thay mặt nhân dân Việt Nam, Chủ tịch phái đoàn Chính phủ Bảo Đại Trần Văn Hữu đã dự Hội nghị San Francisco về “Hiệp ước hòa bình” với Nhật Bản. Tại đây, ông đã tuyên bố rằng, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam, nhân dân Việt Nam có quyền bảo vệ chủ quyền và lãnh thổ của mình. Hội nghị ấy có 51 nước tham gia, song không một thành viên nước nào phản đối hoặc bảo lưu ý kiến. Họ thừa nhận Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam có tiền lệ từ lâu đời trong lịch sử. Trải qua nhiều thập kỷ khai thác và giữ gìn, Việt Nam đã tiến hành hàng trăm cuộc khảo sát địa lý, tài nguyên, thế trận an ninh quốc phòng, kinh tế trên quần đảo. Kết quả những lần khảo sát ấy được ghi chép rõ ràng trong văn học và lịch sử Việt Nam, được xuất bản từ thế kỷ XVII.

* Hoàng Sa, Trường Sa - địa lý và thế mạnh

Việt Nam là một quốc gia ven biển nằm bên bờ Tây của Biển Đông, giữ vị trí chiến lược về chính trị - kinh tế mà không phải quốc gia nào cũng có, với bờ biển dài hơn 3.260km trải dài từ Bắc tới Nam, đứng thứ 27 trong số 157 quốc gia ven biển, đảo quốc trên thế giới. 

Theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, Việt Nam có diện tích biển khoảng trên 1 triệu km2, gấp 3 lần diện tích đất liền, chiếm gần 30% diện tích Biển Đông. Vùng biển nước ta có khoảng 3.000 đảo lớn nhỏ và hai quần đảo xa bờ là Hoàng Sa và Trường Sa, được phân bố khá đều theo chiều dài bờ biển của đất nước. Một số đảo ven bờ còn có vị trí quan trọng, được sử dụng làm các điểm mốc quốc gia trên biển để thiết lập đường cơ sở ven bờ lục địa Việt Nam, từ đó xác định vùng nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, làm cơ sở pháp lý để bảo vệ chủ quyền quốc gia trên các vùng biển. Bên cạnh nhiều đảo lớn nhỏ khác, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ lâu đã thuộc về lãnh thổ Việt Nam.

Quần đảo Hoàng Sa gồm trên 30 đảo, đá, cồn san hô và bãi cạn, với diện tích khoảng 30 ngàn km2, cách đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi - Việt Nam) khoảng 120 hải lý. Quần đảo Hoàng Sa chia làm hai nhóm An Vĩnh và Trăng Khuyết (hay còn gọi là Lưỡi Liềm). An Vĩnh nguyên là tên một xã thuộc Quảng Ngãi. Theo Đại Nam Thực lục Tiền biên quyển 10: “Ngoài biển xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi có hơn 100 cồn cát”.

Một góc đảo Trường Sa Lớn.
Một góc đảo Trường Sa Lớn.

 

Quần đảo Trường Sa nằm giữa Biển Đông về phía Đông Nam nước ta, phía Nam quần đảo Hoàng Sa, cách Cam Ranh (Khánh Hòa - Việt Nam) 243 hải lý, cách đảo Hải Nam (Trung Quốc) 585 hải lý và đến đảo Đài Loan khoảng 810 hải lý. Quần đảo Trường Sa gồm trên 100 đảo lớn nhỏ và bãi san hô với diện tích vùng biển rộng khoảng 410 ngàn km2. Diện tích phần nổi của đảo khoảng 3km2, chia làm 8 cụm (Song Tử, Loại Ta, Thị Tứ, Nam Yết, Sinh Tồn, Trường Sa, Thám Hiểm, Bình Nguyên). Với vị trí giữa Biển Đông, quần đảo Trường Sa có lợi thế về dịch vụ hàng hải, hậu cần nghề cá, đồng thời cũng là một địa chỉ du lịch hấp dẫn. Các khảo sát từ thập niên 40 của thế kỷ XX cũng cho thấy các loài vật sống trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đều là các loài đã gặp ở Việt Nam. Các sách sử của thời Nguyễn cũng chép rõ, theo lệnh vua Minh Mạng, binh lính Việt Nam đã trồng nhiều cây cối trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, để ngày sau cây cối cao to giúp người đi biển nhận biết mà tránh mắc cạn.

Biển Đông cũng như Việt Nam, nằm trong khu vực mà các nhà sinh vật học gọi là Wallacca, là vùng đất sinh sống của các loài động vật Á Đông, điều đó chứng tỏ hoạt động xác lập chủ quyền và thực thi chủ quyền trên thực tế của người Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa là hết sức tự nhiên từ nhiều đời qua.

Mai Thắng

 

 

 

 

 

 

 

 

Tin xem nhiều