Để chi viện vũ khí cho chiến trường miền Nam đánh vào sào huyệt cuối cùng của ngụy quyền Sài Gòn, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, tàu 235 do thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh chỉ huy đã chở 44 tấn vũ khí vượt biển vào Nam.
Để chi viện vũ khí cho chiến trường miền Nam đánh vào sào huyệt cuối cùng của ngụy quyền Sài Gòn, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, tàu 235 do thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh chỉ huy đã chở 44 tấn vũ khí vượt biển vào Nam. Sự hy sinh anh dũng của trung úy Nguyễn Phan Vinh ở vùng biển Hòn Hèo (tỉnh Khánh Hòa) tháng 3-1968 là đỉnh cao của đức hy sinh vì Tổ quốc và nền độc lập dân tộc, tên anh đã thành tên đảo nhỏ giữa vùng biển Trường Sa hôm nay.
Anh hùng liệt sĩ Nguyễn Phan Vinh. (Ảnh TL)
* Anh ngã xuống giữa làn đạn địch
Năm 1968, cuộc chiến đấu chống Mỹ của nhân dân ta đang ở giai đoạn quyết liệt. Kẻ địch đã tìm mọi cách ngăn chặn con đường vận chuyển trên biển mà chúng gọi là con đường “cực kỳ nguy hiểm”. Chúng đã điều động một lực lượng không quân, hải quân khá mạnh để giăng lưới bủa vây trên mặt biển, đón bắt những con tàu cảm tử chở vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam. Trên biển, địch chia nhiều tổ, bố trí tàu chiến khắp nơi hòng ngăn chặn tàu của ta. Chúng lắp đặt radar chuyên dụng quét sóng đêm ngày. Trên trời, chúng cho máy bay tuần đảo trinh sát, dưới đất chúng cho lính siết chặt canh phòng cẩn mật.
11 giờ 30 ngày 27-2-1968, dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh (SN 1933, quê ở Điện Nam, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam), tàu 235 với 20 cán bộ, chiến sĩ (CBCS) đã chở hơn 44 tấn vũ khí vào bến Hòn Hèo (tỉnh Khánh Hòa). Xác định đây là chuyến đi cực kỳ nguy hiểm vì địch ráo riết kiểm soát, Hòn Hèo là bến luồng thủy hẹp, nhiều bãi đá ngầm… đòi hỏi người thuyền trưởng phải có tay nghề lão luyện mới có thể đưa tàu vào bến an toàn, nên Đảng ủy Lữ đoàn 125 quyết định chọn tàu 235 vượt biển làm nhiệm vụ đặc biệt này.
Hai ngày đêm đi trên vùng biển quốc tế, chiều tối 29-2-1968, tàu 235 đến vùng biển Nha Trang thì bị máy bay trinh sát của địch phát hiện. Thuyền trưởng Vinh lệnh cho thủy thủ chuyển hướng tàu vào bờ, nhưng địch vẫn huy động 3 tàu chiến và 4 tàu khác khẩn cấp đến vùng biển Nha Trang với ý định bắt sống tàu 235. Lúc này tàu 235 cách bờ 19 hải lý.
Biết đã bị lộ, thuyền trưởng Vinh khôn khéo cho tàu 235 luồn lách qua đội hình tàu địch và đến được bến Ninh Phước lúc 0 giờ 30 ngày 1-3-1968. Anh quyết định cho thả vũ khí, đạn dược xuống nước để quân dân ở bến Hòn Hèo mò vớt sau. Lúc này, 7 chiếc tàu lớn, nhỏ của địch khép chặt vòng vây ra sức truy đuổi ở phía sau. Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh bình tĩnh động viên đồng đội cho tàu chạy ven bờ xuôi xuống bến Ninh Vân, vừa chạy vừa nghi binh để địch không biết vị trí tàu vừa thả vũ khí xuống biển. Tàu địch lập tức đuổi theo, nã đạn dữ dội. Tàu 235 kẹt vào tình thế vô cùng khó khăn, phía trước là núi chắn, phía sau là 7 tàu chiến địch truy đuổi. Dưới ánh đèn pha sáng rực, địch dùng súng 12,7 ly bắn xối xả vào tàu ta và hy vọng bắt sống. Chúng còn sử dụng pháo cối bắn lên dọc bờ biển hòng không cho “Việt cộng nhảy xuống biển bơi vào bờ tẩu thoát”. Sau đó, chúng gọi máy bay đến thả pháo sáng và bắn rốc-két. Trong lửa đạn, Nguyễn Phan Vinh bình tĩnh chỉ huy đồng đội chiến đấu và điều khiển tàu chạy sát bờ. Các thủy thủ trên tàu liên tiếp dùng DKZ và súng 14,5 ly bắn về phía tàu địch, một chiếc bốc cháy khiến chúng không dám vào gần.
Cuộc chiến đấu mỗi lúc một ác liệt. Hỏa lực của địch liên tục bắn vào tàu 235. Nhiều CBCS trên tàu đã hy sinh và bị thương, thuyền trưởng Vinh cũng bị mảnh đạn sượt qua đầu. Anh tự băng bó vết thương và động viên mọi người chiến đấu nhằm phá vòng vây, vượt ra ngoài khơi cho dễ cơ động, nếu cần sẽ áp sát tàu địch và cho nổ tàu tiêu diệt chúng. Nhưng lúc đó máy tàu bị hỏng nặng nên ý định phá vòng vây không thành, thuyền trưởng Vinh đã chỉ huy cho tàu di chuyển vào sát bờ.
Khoảng 2 giờ 20 ngày 1-3-1968, khi tàu cách bờ hơn 100m, thuyền trưởng Vinh tổ chức đưa người đã hy sinh và bị thương vào bờ, số còn lại được phân công cài kíp nổ, phá tàu. Sau khi cài xong kíp nổ, tất cả nhảy xuống nước bơi vào bờ, nhanh chóng triển khai đội hình chiến đấu ở chân núi Bà Nam (xã Ninh Vân, huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa). Đến 2 giờ 40, một cột lửa bùng lên kèm tiếng nổ dữ dội làm chấn động tới Nha Trang. Sức công phá của khối thuốc nổ khiến tàu 235 đứt đôi, một nửa chìm trong nước, một nửa văng lên lưng chừng núi Bà Nam.
Biết “Việt Cộng” đang co cụm ở chân núi Bà Nam, địch đã gọi máy bay đến bắn phía ven biển nhằm dọn đường cho bộ binh bao vây, bắt sống các thủy thủ tàu 235. Số thủy thủ rút lên bờ còn lại 7 người, thuyền trưởng Vinh đã chỉ huy đồng đội kiên cường chống trả, đánh lui nhiều đợt tấn công của địch. Biết là sẽ hy sinh tại núi Hòn Hèo, nhưng Nguyễn Phan Vinh vẫn bình tĩnh động viên, chỉ huy các chiến sĩ chiến đấu đến hơi thở cuối cùng.
Một ngày, hai ngày, rồi mười ngày trôi qua, dưới cái nắng như thiêu đốt, không lương thực, không nước uống, súng không còn đạn, 6 CBCS tàu 235 còn lại tiếp tục cầm cự, chống trả với kẻ địch. Ngày thứ 12, mọi người liên lạc được với du kích ở bến.
* Noi gương anh quyết tâm giữ đảo
Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh cùng 13 đồng đội thân yêu đã anh dũng hy sinh trên vùng biển Hòn Hèo. Sự hy sinh của anh đã trở thành bất tử trong lòng những người lính biển và quân dân cả nước.
Đảo Phan Vinh vững vàng giữa ngàn khơi.
Tên tuổi Nguyễn Phan Vinh và 13 chiến sĩ hải quân hy sinh tại biển Hòn Hèo năm 1968 được lập bia tại đảo Phan Vinh (thuộc quần đảo Trường Sa) như nhắc nhở thế hệ CBCS hôm nay và mai sau nêu gương sống, chiến đấu và sẵn sàng hy sinh bảo vệ vùng biển, vùng trời của Tổ quốc. Tự hào hòn đảo mang tên người anh hùng, nhiều thế hệ CBCS trên đảo Phan Vinh luôn nỗ lực vượt mọi khó khăn, thử thách để hoàn thành tốt nhiệm vụ nơi đầu sóng ngọn gió và quyết tâm giữ đảo dù phải hy sinh tính mạng của mình. Hôm đoàn công tác chúng tôi ra thăm được chia làm hai nhóm để đến với CBCS trên cả 2 điểm đảo Phan Vinh A và Phan Vinh B. Khi đặt chân lên cầu cảng, tất cả CBCS đã chờ sẵn trên bờ từ khi nào. Sau những cái bắt tay siết chặt, những lời thăm hỏi thân tình là khoảng lặng xúc động khi đoàn trưởng công tác kể câu chuyện về sự hy sinh quên mình của liệt sĩ Nguyễn Phan Vinh. Các nữ văn công đi theo đoàn đều khóc, còn chúng tôi ngậm ngùi chẳng nói nên lời. Tôi còn nhớ như in lời nói của chiến sĩ Nguyễn Hùng Hiền: “Trong gian khổ mới thấy đức hy sinh, trong gian nguy mới hiểu tình đồng đội. Thế hệ chúng tôi biết ơn anh Vinh bao nhiêu, thì càng quyết tâm giữ đảo bấy nhiêu. Anh hùng Nguyễn Phan Vinh luôn là niềm tự hào của những người lính biển”.
Đảo Phan Vinh hôm nay xanh tươi bởi trăm loài cỏ cây hoa lá và đời sống bộ đội được cải thiện nhờ có điện từ nguồn năng lượng mặt trời. Dù ở biển, dù ở sông hay lênh đênh trên những con tàu vượt sóng ngàn khơi, CBCS đảo Phan Vinh đang ngày đêm vững vàng tay súng bảo vệ từng tấc đảo, dải sóng thiêng liêng của Tổ quốc.
Mai Thắng