Báo Đồng Nai điện tử
En

Người lính già và ký ức Trường Sa

09:09, 17/09/2012

Trong chuyến tàu chở đoàn đại biểu thăm quân - dân huyện đảo Trường Sa (tỉnh Khánh Hòa), có một người đàn ông trạc gần tuổi 60 nhưng nhanh nhẹn, khỏe khoắn. Hằn sâu trên khuôn mặt dạn dày sương gió của ông là chí khí mạnh mẽ của người lính Công binh Hải quân một thời vác đá xây đảo Tiên Nữ, Tốc Tan.

Ông Phạm Văn Minh.
Ông Phạm Văn Minh.

Trong chuyến tàu chở đoàn đại biểu thăm quân - dân huyện đảo Trường Sa (tỉnh Khánh Hòa), có một người đàn ông trạc gần tuổi 60 nhưng nhanh nhẹn, khỏe khoắn. Hằn sâu trên khuôn mặt dạn dày sương gió của ông là chí khí mạnh mẽ của người lính Công binh Hải quân một thời vác đá xây đảo Tiên Nữ, Tốc Tan.

Ông bảo: “Cuộc đời tôi gắn liền với Trường Sa và những công trình xây đảo. Hơn 10 năm vác đá xây Trường Sa là ngần ấy thời gian khó khăn, gian khổ. Nhưng đó cũng là những ngày tháng đẹp nhất của đời lính biển mà tôi không bao giờ quên”. Ông là Phạm Văn Minh, cựu binh già xây đảo Trường Sa hơn 20 năm về trước.

* Những năm tháng không quên

Đêm đầu tiên trên con tàu HQ 936 của Vùng 4 Hải quân chở đoàn đại biểu đi thăm quân dân - huyện đảo Trường Sa, trong khi mọi người xem phim tư liệu Tổ quốc nơi đầu sóng thì ông Minh lại đứng phía mũi tàu nhìn xa xăm về hướng con tàu đi tới. Dưới ánh trăng đầu tuần, nước mắt ông lăn dài, ông nghĩ về những năm tháng cùng bao đồng đội vác đá xây đảo. Ông bảo: “Cho dù có đi hết cuộc đời, những năm tháng xây đảo Trường Sa vẫn không thể nào quên trong ký ức tôi. Lính Công binh Hải quân cuộc đời đẹp nhất là đi Trường Sa xây đảo”.

Sau năm 1985, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta tiếp tục đưa bộ đội hải quân ra Trường Sa ở một số bãi cạn ngầm, khẳng định cột mốc chủ quyền và xây những công trình nhà ở lâu bền trên phần đảo của Tổ quốc. Khi ấy, ông Phạm Văn Minh là Đại đội trưởng Đại đội 10, thuộc Trung đoàn 131, Công binh Hải quân. Trước ngày ra bãi cạn Tiên Nữ xây đảo, ông nhận được tin 64 cán bộ, chiến sĩ (CBCS) trên tàu HQ 604 đã anh dũng chiến đấu, giành giật từng tấc đảo với quân thù, có người đã vĩnh viễn nằm lại biển khơi. Tin dữ ấy không làm ông chùn bước, trái lại ông càng nung nấu ý chí và quyết tâm đi đảo. “Lúc đó, tôi nghĩ việc xây đảo và khẳng định chủ quyền trên phần đất của Tổ quốc mình là sứ mệnh của người lính trên tuyến đầu, chứ không nghĩ đến khó khăn, gian khổ. Đi đảo ngày ấy là một niềm vinh dự lớn lao, tự hào vô cùng”- ông Minh chia sẻ.

“Từng viên đá, nắm cát Trường Sa đều mang hồn thiêng Tổ quốc. Trường Sa là phần đất không tách rời của Việt Nam, bảo vệ và giữ gìn Trường Sa là trách nhiệm của đời đời con cháu” - ông Phạm Văn Minh căn dặn.

Một ngày cuối tháng 3-1988, Đại úy Phạm Văn Minh cùng 36 CBCS trên tàu hải quân vượt sóng ra bãi cạn Tiên Nữ xây đảo. Những năm 1980, các đảo lớn, nhỏ thuộc quần đảo Trường Sa vẫn còn hoang sơ, chủ yếu là đảo chìm. Khi thủy triều xuống, đảo nhô lên khỏi mặt nước, thủy triều lên đảo chìm sâu dưới biển. Thời tiết vô cùng khắc nghiệt, ban ngày nắng cháy da, đêm phải đắp chăn chống lại sương biển và hơi muối mặn. Để đẩy nhanh tiến độ xây đảo, các chiến sĩ phải chạy đua với thời gian, bất chấp thời tiết nắng, mưa, hễ thủy triều xuống là đi vác đá từ tàu vào đảo. Do ngâm trong nước biển mặn lâu ngày, chân, tay của các chiến sĩ đều bị bong tróc, tóc ai cũng cứng và đỏ quạch như rễ tre, da đen nhẻm. Dưới cái nắng 40 độ và gió rát mặt, họ chỉ nhận ra nhau bằng hàm răng trắng và ánh mắt sáng. Ngày ấy, vác đá không có tấm bảo hộ kê vai như bây giờ nên chỉ sau 3 ngày là vai áo chiến sĩ rách bươm. Bộ đội phải nghĩ ra cách gấp đôi chiếc bao tải, đặt lên vai làm lót vác đá cho đỡ đau. Thức ăn của chiến sĩ ngày ấy chủ yếu là đồ hộp và rau muống phơi khô đem ra từ đất liền. Do không có thực phẩm tươi, nhiều chiến sĩ bị đau bụng, kiết lỵ. Nhiều đêm dông bão ầm ầm, mọi người ngồi bên nhau kể chuyện quê nhà, cây đàn ghi-ta bập bùng, lời bài hát "Hát mãi khúc quân hành" vang lên trong màn đêm lẫn vào sóng nước. Sau những phút giây vui tươi ấy là khoảng lặng. Trong sâu thẳm trái tim, các chiến sĩ đều nhớ đất liền, thương mẹ già ở quê, nhớ người bạn gái bịn rịn chia tay trước lúc lên đường.

Nói về chuyện vác đá rách vai, giọng ông Minh xúc động: “Vết xước của đá trên vai càng nhiều, mình càng thấy yêu Tổ quốc. Đá càng nặng, tình yêu Tổ quốc càng sâu, thương đồng đội càng nhiều. Vác đá trên vai là vác trọng trách của Đảng và nhân dân giao phó”.

Những khó khăn ấy chưa phải là tận cùng. Một chiều tháng 7-1988, sau gần 6 ngày vật lộn với nắng gió, một “loa thành” giữa biển gần hoàn thành. Bỗng nhiên, trời nổi cơn dông, sấm chớp ầm ầm, mưa như trút nước. Nhìn bức tường vừa xây xong chưa kịp ráo vữa bị mưa biển xói mòn, mọi người ôm nhau khóc. Trong nước mắt, hình ảnh ngôi nhà giữa biển khơi với lá cờ đỏ sao vàng bay trên nóc đảo lấp lánh trong tim ông. Mặc cho bức tường mới xây sạt lở phân nửa, sau cơn dông, ông lại chỉ huy các chiến sĩ khẩn trương lập giàn giáo, trộn hồ xếp từng viên đá vào lòng biển...

* Tổ quốc gọi, tôi sẵn sàng ra xây đảo

“Bây giờ, nếu được trở lại Trường Sa, bác sẵn sàng xây đảo chứ?" - chúng tôi hỏi. “Tổ quốc gọi, tôi sẵn sàng. Nếu được trở lại quân ngũ, cho tôi xin trở lại Trường Sa để tiếp tục xây đảo. Trường Sa với tôi là máu thịt thiêng liêng nhất. Từng viên đá xây đảo, từng ngôi nhà lâu bền đã thấm mồ hôi công sức, nhuộm máu đồng đội. Những ngày xây đảo là những ngày hoa lửa đẹp nhất của cuộc đời tôi” - ông Minh trả lời không hề do dự.

Đảo Đá Lát, một thời ông Phạm Văn Minh đã tham gia xây dựng.
Đảo Đá Lát, một thời ông Phạm Văn Minh đã tham gia xây dựng.

Hơn 10 năm chân trần vác đá xây đảo: Nam Yết, Tốc Tan, Tiên Nữ, Trường Sa Lớn, cựu chiến binh Phạm Văn Minh cảm nhận được sự hy sinh thầm lặng của những người lính công binh thời bình. Tất cả những mất mát đau thương gian khổ năm xưa, bây giờ là hoài niệm thiêng liêng trong ông. Ông đến Trường Sa lần này không chỉ với tư cách đại biểu “Cựu binh một thời vác đá xây Trường Sa”, là nhân chứng sống về những câu chuyện kể về xây đảo những năm 1980, mà còn là người truyền lửa và hâm nóng tình yêu biển đảo cho thế hệ CBCS Trường Sa và lớp trẻ.

Gần 30 năm trong đời quân ngũ, hơn 10 năm vác đá xây đảo, hành trang của người cựu công binh xây Trường Sa trở về đời thường ở huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa chẳng có gì quý hơn ngoài tình yêu Tổ quốc mãnh liệt. Cốt lõi của tinh thần yêu nước ấy, ông nén chặt bằng những vần thơ và coi đó là nhựa sống của một thời hoa lửa đẹp nhất. Ông Minh bảo: “Bây giờ, tôi sống ở tỉnh Quảng Ninh. Mỗi lần ra biển, tôi như thấy Trường Sa trước mắt mình và thấp thoáng những người lính công binh xây đảo trong ký ức”.

Biển đêm Trường Sa êm dịu, con tàu HQ 936 băng băng tiến về phía trước. Ông Minh cất tiếng đọc cho chúng tôi nghe bài thơ mà ông ghi lại một thời gắn bó với Trường Sa: Trường Sa đứng giữa biển khơi/ Bốn mùa sóng vỗ, sóng dồi, sóng xô/ Sóng trùm lên đảo san hô/ Sóng tung ướt cả ba lô trên sàn. Ánh mắt ông nhìn xa xăm vào biển đêm như tìm về một thời trai trẻ - những tháng năm vô cùng gian khó nhưng cũng đầy oai hùng mà ông và đồng đội đã trải qua...

Mai Thắng

 

 

 

 

Tin xem nhiều