Ngày 14-4-1975, 300 lính Đặc công Hải quân Đoàn 126 và lính Quân khu 5 đã giải phóng đảo Song Tử Tây (thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam). Họ được ví như những "Yết Kiêu" thời đại Hồ Chí Minh trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển đảo, thềm lục địa của Tổ quốc.
Ngày 14-4-1975, 300 lính Đặc công Hải quân Đoàn 126 và lính Quân khu 5 đã giải phóng đảo Song Tử Tây (thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam). Họ được ví như những “Yết Kiêu” thời đại Hồ Chí Minh trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển đảo, thềm lục địa của Tổ quốc.
Bộ đội Đặc công Hải quân luyện tập trên biển thềm lục địa. |
Điển hình của những “Yết Kiêu” ấy là Thiếu tướng Mai Năng, người đã trực tiếp cầm đoàn quân đặc công nước vượt biển ra giải phóng Trường Sa năm 1975.
* Kế sách đánh địch “vượt cạn” trên biển
Trong chuyến công tác tại Bộ Tư lệnh Hải quân (TP.Hải Phòng), chúng tôi đã có dịp gặp Thiếu tướng Mai Năng (tên thật là Tạ Văn Thiều). Năm 1975, ông Năng đeo hàm trung tá, được phân công chỉ huy lực lượng ra giải phóng Trường Sa. Ký ức về ngày hải trình trên biên đội tàu không số vượt biển đi giải phóng Trường Sa vẫn in đậm trong tâm trí vị tướng một thời trận mạc. “Lớp chúng tôi ngày ấy, nói đến việc đi Trường Sa thì thấy hăng hái lắm. Khi nhận được kế hoạch giải phóng Trường Sa, tôi nghĩ có thể mình sẽ không trở lại nữa, nhưng khí thế của ngày giải phóng đất nước cứ hừng hực trong tim, vậy là lên đường không hề do dự” - ông Năng chia sẻ.
Đêm 10-4-1975, 300 chiến sĩ Đội 1, Đoàn 126 đặc công Hải quân cùng các lực lượng của Quân khu 5 đi trên 3 “tàu không số” 673, 674 và 675 được cải trang thành tàu đánh cá xuất phát từ cảng Sơn Trà (Đà Nẵng) đi Trường Sa. Thiếu tướng Mai Năng đi trên tàu 675, giữ chức chỉ huy biên đội tàu. Trước lúc lên đường, Phó tư lệnh Hải quân Hoàng Hữu Thái giao nhiệm vụ cho biên đội tàu: “Bằng bất cứ giá nào, chúng ta phải tranh thủ thời cơ có lợi giải phóng quần đảo Trường Sa. Trận này ta không thể đánh theo cách của đặc công nước, phải đánh trinh sát vũ trang, có chỗ phải dùng hỏa lực. Khi giải phóng rồi phải tổ chức lực lượng phòng thủ đảo ngay và tiếp tục giải phóng các điểm đảo khác”. Được đồng chí Phó tư lệnh giao nhiệm vụ, Trung tá Năng tính toán trong đầu: “Phải vận dụng chiến thuật đánh trên bộ kết hợp dưới biển mới có thể đánh thắng địch. Đây là trận đánh quan trọng đến sinh mệnh của Trường Sa”.
Nằm trên boong tàu, ông Năng suy nghĩ về bao khó khăn đang ở phía trước mà ông và những người lính trẻ phải đối mặt, bởi mang tiếng lính đặc công nước nhưng hầu hết mọi người là lính mới, chưa một ngày trải qua chiến đấu. Phải làm thế nào để bớt đổ máu, để giải phóng Trường Sa và thắng lợi hoàn toàn, là những câu hỏi đặt ra trong đầu người chỉ huy. Cuối cùng, ông đã tìm ra giải pháp “đánh địch vượt cạn trên biển”.
Giải thích về chiến thuật đánh địch, ông Năng cho biết: “Bộ đội đặc công chỉ quen đánh địch đổ bộ sông biển, nhưng địa hình là đảo, sóng lớn nên đánh được địch phải vượt biển, tránh sóng, thắng được địch trên đảo phải áp dụng chiến thuật tiến công, chốt chặn, ẩn nấp. Chiến thuật đánh vượt cạn trên biển là vậy”.
* Cờ Tổ quốc trên đảo tiền tiêu
Sau hơn 3 ngày đêm hải trình khẩn cấp, rạng sáng 13-4-1975, biên đội tàu đã đến vùng biển Song Tử Tây. Trung tá Năng mở tấm hải đồ Trường Sa, trỏ tay vào một điểm rồi dõng dạc nói: “Đây là đảo Song Tử Tây, chúng ta hiện đang ở tọa độ này… Tàu sẽ bí mật vào cách đảo 4 hải lý. Nếu điều kiện cho phép, cứ vào sát nữa, vòng quanh đảo tìm vị trí đổ bộ”.
Mệnh lệnh đanh thép từ người chỉ huy như tiếp thêm sức mạnh chiến đấu cho từng chiến sĩ. Hướng về phía Đội trưởng Đội 1 Nguyễn Ngọc Quế, người được giao nhiệm vụ trực tiếp chỉ huy bộ đội giải phóng đảo Song Tử Tây, Trung tá Năng nói: “Đồng chí cứ theo phương án đó mà thực hiện”.
1 giờ sáng 14-4-1975, biên đội tàu 673, 674 và 675 đã bí mật tiếp cận đảo Song Tử Tây cách 3 hải lý. Nhìn từ phía biển, đảo Song Tử Tây là đảo san hô khá lớn, bập bềnh trong sóng lớn. Trên đảo phát ra vài quầng sáng yếu ớt của mấy ngọn đèn bảo vệ từ các lô cốt. Xác định đây là thời cơ thuận lợi để hạ xuồng cho quân bí mật áp sát đảo, làm bàn đạp để tiến công.
50 năm qua, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ hải quân luôn lấy mục tiêu bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo làm nhiệm vụ chính trị trọng tâm và luôn tự hào là đội quân “đặc nhiệm trên biển” hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Nửa thế kỷ ra đời, chiến đấu và trưởng thành, Đặc công Hải quân đã đắp xây lên truyền thống “Anh dũng, mưu trí, khắc phục khó khăn, đoàn kết, hiệp đồng, chiến đấu liên tục”. Có 6 lượt tập thể và 12 cá nhân được phong tặng, truy tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, trong đó Đội 1 được phong tặng 3 lần; hàng trăm lượt tập thể, cá nhân được tặng huân, huy chương các loại. Chiến công anh dũng của Đặc công Hải quân là một trong những chiến công vang dội, góp phần cùng cả nước hoàn thành thắng lợi sự nghiệp kháng chiến vệ quốc của dân tộc. |
Mệnh lệnh “thả xuồng” được truyền đi từ đài chỉ huy. Tàu 673 nhanh chóng quay mũi về hướng Bắc để giữ bí mật, chọn chiều gió, hướng sóng thuận lợi để tàu đổ bộ. Hai tàu 674, 675 ở phía Tây và phía Bắc đảo tiếp ứng cho quân đổ bộ, sẵn sàng đánh chặn tàu địch từ phía ngoài.
Cuộc chiến đấu bắt đầu. Giữa biển đêm đen, sóng gió ầm ầm nhưng vẫn nghe được tiếng ken két phát ra từ ròng rọc hạ xuồng đổ bộ. Khí thế chiến đấu của bộ đội hừng hực. Lợi dụng thủy triều xuống thấp, tàu 673 khẩn cấp cho chiến sĩ bí mật tiếp cận đảo. “Mặc dù thủy triều xuống thấp, thuận lợi cho bộ đội cơ động, song cũng mất hơn 3 giờ mới tiếp cận được đảo. Các chiến sĩ nhanh chóng lợi dụng địa hình, địa vật bí mật sẵn sàng chờ lệnh nổ súng” - Thiếu tướng Năng kể.
Đảo Song Tử Tây nửa đêm về sáng lặng lẽ hoang vu. Từ phía lô cốt địch thỉnh thoảng lại lóe lên một chấm sáng nhỏ. Tất cả im lặng. Sau khi 38 cán bộ, chiến sĩ Phân đội 1 bí mật bò sát mép đảo vào vị trí chiến đấu, Đội trưởng Quế hạ lệnh “nổ súng” và một loạt đạn DKZ bắn thẳng vào lô cốt, ụ súng địch. Những tiếng hô “xung phong” vang dậy khắp đảo. Hỏa lực từ tàu 673 tới tấp nã vào các mục tiêu.
Bị tấn công bất ngờ, địch chống trả quyết liệt, đại liên từ các lô cốt bắn ra như mưa. B40, B41 của các chiến sĩ đặc công tập trung bịt họng các ổ đề kháng của địch và nhanh chóng đánh chiếm sở chỉ huy, làm chủ điện đài. “Cuộc chiến đấu diễn ra rất oanh liệt. Các chiến sĩ trẻ rất dũng cảm, thương vong không đáng kể. Lá cờ của mặt trận giải phóng miền Nam Việt Nam được chiến sĩ Lê Xuân Phát kéo lên đỉnh cột cờ trước bia chủ quyền, tung bay trên đảo Song Tử Tây. Lúc đó là 5 giờ 15 ngày 14-4-1975” - Thiếu tướng Năng nói.
Mai Thắng