20 năm thành lập, xây dựng và trưởng thành, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ (CBCS) Căn cứ 696 Vùng 2 Hải quân đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quân sự quốc phòng; xứng đáng là trung tâm bảo đảm vũ khí, kỹ thuật đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ huấn luyện, chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu cho các đơn vị Quân chủng Hải quân khu vực phía Nam...
20 năm thành lập, xây dựng và trưởng thành, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ (CBCS) Căn cứ 696 Vùng 2 Hải quân đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quân sự quốc phòng; xứng đáng là trung tâm bảo đảm vũ khí, kỹ thuật đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ huấn luyện, chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu cho các đơn vị Quân chủng Hải quân khu vực phía Nam; góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo, nhà giàn, thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc trong mọi tình huống. Đó là niềm tự hào vô bờ của những người lính biển giữ rừng Căn cứ Thành Tuy Hạ 20 năm qua.
Bài 1: Nhớ thời dựng trại giữa rừng sâu
20 năm trước, mảnh đất này là rừng tạp, đất đai khô cằn, thời tiết khắc nghiệt. Những người lính biển Căn cứ 696 đã phải lăn lộn, ngày phát rừng, tối đào công sự, đêm nằm chòi lá, chạy đua với khí hậu khắc nghiệt để đặt những viên gạch đầu tiên xây nên những công trình quân sự đặc biệt giữa rừng sâu.
Cán bộ, chiến sĩ Căn cứ 696 thăm di tích Rừng Sác, huyện Nhơn Trạch. |
Ngày phát rừng, đêm nằm chòi lá
“Khó có thể nói hết những gian khổ ngày đầu tiên xây dựng Căn cứ 696, nhưng thế hệ CBCS chúng tôi luôn tự hào vì đã hoàn thành tốt nhiệm vụ cấp trên giao phó. Giữa rừng, biệt lập với địa phương bên ngoài, đời sống vô cùng khó khăn, nếu không có quyết tâm, đồng lòng xây dựng thì đơn vị không thể có cơ ngơi khang trang như bây giờ” - Đại tá Vũ Hồng Đô, nguyên Chỉ huy trưởng Căn cứ 696, chia sẻ trong niềm tự hào.
Đại tá Vũ Hồng Đô là Chỉ huy trưởng đầu tiên và có mặt sớm nhất khi thành lập Căn cứ Hải quân 696 ngày ấy (tên dân sự gọi là S96). Trong nhiều câu chuyện kể về những ngày đầu gian khó, có 2 việc làm ông xúc động nhất, đó là sự quyết tâm của CBCS trước khó khăn, gian khổ khi xây kho trạm và tình quân dân trong mỗi lần làm công tác dân vận. “Năm 1996, lúc tôi về Thành Tuy Hạ nhận nhiệm vụ, nhìn đơn vị bốn phía là rừng rậm hoang vu, bãi bom mìn của Mỹ - ngụy để lại, cả Thành Tuy Hạ chỉ có một dãy nhà của Pháp để lại, 2 nhà cấp bốn tàn cũ. Nghĩ bụng, phải làm gì đây để xây dựng đơn vị, trong khi điều kiện vô cùng khó khăn, biệt lập với bên ngoài, quân số chỉ có 13 CBCS. Nhưng có quyết tâm, có chí cũng thành công” - ông Đô nhớ lại.
Trước năm 1975, Thành Tuy Hạ là Tổng kho bom đạn của Mỹ - ngụy, có vành đai rộng khoảng 23 hécta. Để bảo vệ kho đạn này, Mỹ - ngụy đã phòng bố khá kiên cố và bài bản. Phía ngoài cùng là giao thông hào. Trong lòng đất giữa rừng tạp, Mỹ - ngụy gài hàng ngàn quả mìn lá kích nổ; thả rắn lục xanh, cá sấu, rết độc nhằm chống biệt kích người nhái của ta xâm nhập vào kho đạn; phía trong là tường thành vững chắc.
Trước địa hình phức tạp đó, ông Đô cùng 12 CBCS quyết tâm: “Biến kho bom đạn của Mỹ - ngụy thành trung tâm kỹ thuật bằng sức lực người lính”. Đại tá Đô chia sẻ: “Thượng tướng Đào Đình Luyện và Phó đô đốc Hải quân Mai Xuân Vĩnh lúc đó đã về khảo sát. Các ông nói với tôi: “Mày học chỉ huy tàu mặt nước đến đây là “trái nghề” rồi”. Tôi trả lời: “Là người lính thì chiến trường nào cũng sẵn sàng xung trận”.
Ngay sau khi khảo sát địa bàn, Bộ Quốc phòng đã chỉ đạo Công ty Lũng Lô rà phá bom mìn quanh Thành Tuy Hạ, chỉ thầu Công ty Hải Công xây kho tàng, cầu cảng, xưởng trạm. Cùng với công nhân 2 công ty Lũng Lô và Hải Công, 13 CBCS lăn lộn với công việc. Số chiến sĩ trẻ phải canh gác suốt ngày đêm ở 2 cổng Đông và Tây bảo đảm an toàn cho công trình. Số sĩ quan và quân nhân chuyên nghiệp còn lại cùng với công nhân Công ty Lũng Lô rà phá mìn lá, vác đá xây cầu cảng và các công trình kho xưởng. “Lúc ấy, đời sống CBCS khó khăn lắm. Ban ngày đi phát cây rừng, đêm về nằm chòi lá. Nhiều đêm mưa rừng, nước trên đồi chảy như thác đổ. Nằm trong chòi, vắt nhiều vô kể. Lính trẻ mỗi lần vác súng tuần tra phải căng mắt nhìn xuyên đêm và đề phòng rắn lục từ ngọn cây bò xuống cắn bổ vào đầu” - ông Đô kể lại.
Cùng với việc gỡ mìn, xây xưởng, cảng…, khi được tăng cường lực lượng, ông Đô đã cử một tiểu đội hành quân ra Vùng 1 Hải quân (tỉnh Nghệ An) nhận khí tài về bảo dưỡng. Do xưởng xây chưa xong nên khí tài khi nhận về phải để tạm bên Kho K862.
Sau 3 tháng chạy đua với thời gian, Trạm nâng cấp đạn mang tên T93 ra đời có công suất 53VA. Đây là trạm dây chuyền công nghệ nâng cấp đạn ngư lôi tàu biển đầu tiên của Hải quân khu vực Nam bộ. Để bảo đảm nhiệm vụ huấn luyện, diễn tập, hàng trăm CBCS chuyên môn kỹ thuật ngày đêm miệt mài bên dây chuyền trong xưởng máy nâng cấp, sản xuất mới đạn dược cho Vùng 4 Hải quân và Tàu 13, Lữ đoàn 171 diễn tập tổng hợp bảo vệ chủ quyền biển đảo phía Nam của Tổ quốc.
Ánh sáng trong tim lính trẻ giữa rừng sâu
Ba việc khó khăn nhất ở Thành Tuy Hạ lúc bấy giờ là: “Không đường, không điện, không nước”. Để đến được địa điểm này, chỉ có duy nhất con đường mòn 25A. Nơi đây vốn là kho đạn bí mật của Mỹ - ngụy nên vị trí độc đạo, biệt lập với bên ngoài. Số hộ dân sống ở vùng này thời đó chỉ đếm trên đầu ngón tay. Phần họ không muốn ở gần kho đạn của Mỹ - ngụy và sợ rắn lục xanh, rết độc, bọ cạp…, phần vì thời tiết khắc nghiệt, đất đai khô cằn.
Thực hiện “3 tại chỗ”, ông Đô đã huy động bộ đội khoan giếng lấy nước ngọt từ lòng đồi cao. Lượng nước ngọt lúc đó đủ phục vụ xây dựng xưởng trạm, cầu cảng, kho tàng. Giữa cái nắng cháy da thịt, hàng trăm CBCS khiêng đá, chuyển cát làm đường, đào hầm hào công sự. Đêm về, cả trăm CBCS chỉ có 3 cái bóng đèn điện, ngồi trong nhà bạt, nhà chòi sinh hoạt, phổ biến nhiệm vụ.
Ngày đó, ở Thành Tuy Hạ chỉ Kho K862 có điện từ máy phát điện. Người dân quanh vùng còn dùng đèn dầu. Đơn vị xin điện chiếu sáng từ Kho K862, nhưng cũng chỉ đến 21 giờ. Nhiều chiến sĩ đọc, viết thư dưới ánh đèn dầu. Từ 21 giờ trở đi, cả Thành Tuy Hạ chìm trong màn đêm.
Trong màn đêm dày đặc mìn lá và thuốc súng ấy, những chiến sĩ trẻ ôm súng canh gác cho đơn vị an toàn. Để đem ánh sáng về rừng, Đại tá Đô đã lặn lội lên TP.Hồ Chí Minh, rồi Sở Điện lực Đồng Nai xin kéo điện. Sau gần một tháng thi công, trạm điện 65 KVA hoàn thành. Giữa rừng sâu căn cứ, lần đầu tiên CBCS nhìn thấy bóng đèn điện thắp sáng. Nước mắt họ trào ra vì sung sướng. Trong khoảnh khắc ấy, trong tim mỗi người dâng lên niềm tự hào. Có sĩ quan đã rưng rưng nước mắt vì xúc động.
Mai Thắng
Bài 2: Trong lòng dân Đồng Nai