Chiến lược "lấy nữ làm chủ công" được ngành thể thao xác lập ngay từ khi tái hội nhập quốc tế và hiện vẫn đang được phát huy, khẳng định.
Chiến lược “lấy nữ làm chủ công” được ngành thể thao xác lập ngay từ khi tái hội nhập quốc tế và hiện vẫn đang được phát huy, khẳng định.
Các tuyển thủ bóng chuyền nữ Việt Nam. |
Trong quá khứ, thể thao Việt Nam từng có những tên tuổi nữ lẫy lừng, không hề thua kém bất cứ VĐV nam nào như: nhà quán quân bơi lội châu Á Vũ Thị Sen, kỷ lục gia đường chạy việt dã Trần Thị Soa... Thế nhưng, chưa bao giờ vai trò và sự đóng góp của phái nữ lại áp đảo như thời kỳ đổi mới. Họ chính là những cột mốc mang tính đột phá giúp thể thao Việt Nam hội nhập quốc tế nhanh mạnh, thậm chí chinh phục các đỉnh cao châu lục và thế giới.
Ngay kỳ SEA Games 1989 mà thể thao Việt Nam chính thức tái xuất trở lại đấu trường khu vực, 2/3 HCV giành được là do công của các nữ xạ thủ, với bộ đôi thiện xạ xuất sắc Ngô Ngân Hà, Đặng Thị Đông. Ở kỳ đại hội kế tiếp, Đặng Thị Đông đã gây chấn động làng thể thao khu vực khi trở thành nữ VĐV duy nhất phá được kỷ lục châu Á.
Đến SEA Games 1995, cũng một VĐV nữ - Vũ Bích Hường - mang về cho điền kinh Việt Nam tấm HCV lịch sử đầu tiên…
Truyền thống ấy được tiếp nối hào hùng với nhiều VĐV nữ tài năng đã tạo ra những thành quả bước ngoặt cho sự phát triển, nổi bật như “Nữ hoàng tốc độ” Vũ Thị Hương hay mới nhất là “kình ngư” Nguyễn Thị Ánh Viên.
Với đấu trường đỉnh cao nhất Olympic, người đã tạo ra dấu son quyết định cũng chính là một gương mặt nữ: võ sĩ taekwondo Trần Hiếu Ngân. Chị đã mang về tấm HCB lịch sử ở Olympic 2000, một kỳ tích làm nức lòng mọi người con Hồng Lạc, khiến cả thể thao quốc tế nể phục. Rồi khi sân chơi ASIAD được coi là đích nhắm chính, tuy các tuyển thủ nam đi tiên phong nhưng ưu thế vượt trội lại đang thuộc về phái nữ. Ở 4 kỳ Á vận hội trở lại đây, các nữ VĐV đoạt tới 7/8 HCV
Tính tổng thể, các VĐV nữ đang nắm giữ 60-70% thành tích quốc tế của thể thao Việt Nam, một tỷ lệ cao vào loại hàng đầu thế giới.
Các VĐV Việt Nam nói chung đã phải chấp nhận những gian khó đặc thù. Tuy nhiên, điều đáng nói, khó khăn lại được được thể hiện nhất với các VĐV nữ. Họ luôn phải chiến đấu và vượt khó bằng tài năng, niềm đam mê và sự bền bỉ phi thường.
Ngoài những thiệt thòi chung về chấn thương, bệnh tật, rồi thu nhập, lương thưởng, sự khắc nghiệt của thể thao…, các nữ VĐV còn có những nỗi niềm riêng. Họ đã phải mất đi những điều tưởng như bình thường, đơn giản nhất song lại là vô giá, không có gì đo đếm được: nhan sắc, tuổi xuân, sức khỏe, thậm chí là cả hạnh phúc riêng tư…
Chẳng ai có thể cầm lòng trước những trường hợp chấn thương đến mức tàn phế cả đời như của đô vật Lê Thị Huệ, trước đôi bàn tay như “bà già” cùng chấn thương đủ loại của ngôi sao thể dục dụng cụ Hà Thanh, trước cuộc sống bi đát của “tượng đài điền kinh” Vũ Bích Hường, trước con số đáng giật mình khi quá nửa số các cầu thủ nữ không thể tìm được tổ ấm cho mình, chỉ vì trót trao thân gửi phận cho nghiệp bóng đá…
Vị thế cùng sự hy sinh, thiệt thòi của các nữ VĐV đặc biệt là thế. Dù vậy chưa bao giờ họ được hưởng những chế độ chính sách đãi ngộ riêng, từ chuyện lương thưởng, nơi ăn chốn ở đến học hành, công việc sau khi giải nghệ...
Vì vậy, xin được gửi tới tất cả các nữ VĐV - những người đang hàng ngày “đổ mồ hôi, sôi nước mắt”, bất chấp nắng, mưa trên thao trường, miệt mài tập luyện để mang về vinh quang cho Tổ quốc - lời cảm ơn và chúc mừng 8-3 muộn.
Tường Nhi