Tiếp tục chương trình làm việc kỳ họp thứ 10, sáng 11/11, các đại biểu Quốc hội làm việc tại hội trường thông qua dự thảo Nghị quyết về dự toán ngân sách nhà nước năm 2016...
Tiếp tục chương trình làm việc kỳ họp thứ 10, sáng 11/11, các đại biểu Quốc hội làm việc tại hội trường thông qua dự thảo Nghị quyết về dự toán ngân sách nhà nước năm 2016 và thảo luận một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự thảo Bộ luật hàng hải Việt Nam (sửa đổi).
Thông qua Nghị quyết về dự toán ngân sách Nhà nước năm 2016
Với đa số đại biểu tán thành, Quốc hội đã thông qua dự thảo Nghị quyết về dự toán ngân sách nhà nước năm 2016. Theo dự toán, tổng số thu cân đối ngân sách nhà nước là 1.014.500 tỷ đồng; nếu tính cả 4.700 tỷ đồng thu chuyển nguồn ngân sách địa phương từ năm 2015 sang năm 2016 thì tổng số thu ngân sách nhà nước là 1.019.200 tỷ đồng; tổng số chi cân đối ngân sách nhà nước là 1.273.200 tỷ đồng; mức bội chi ngân sách nhà nước là 254.000 tỷ đồng, tương đương 4,95% tổng sản phẩm trong nước (GDP).
Nghị quyết giao Chính phủ trong năm 2016 thực hiện chính sách tài khóa chặt chẽ; phối hợp đồng bộ với chính sách tiền tệ nhằm hỗ trợ phát triển sản xuất, kinh doanh, tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao hơn năm 2015.
Tăng cường kỷ luật tài chính-ngân sách, thực hiện dự toán ngân sách nhà nước đúng quy định của pháp luật. Đẩy mạnh giám sát và công khai, minh bạch việc sử dụng ngân sách nhà nước, nhất là trong các lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, lãng phí. Chỉ đạo tổ chức thực hiện tốt các luật thuế và các nhiệm vụ thu ngân sách nhà nước. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thuế, chống thất thu, ngăn chặn các hành vi buôn lậu, gian lận thương mại, sản xuất, kinh doanh hàng giả, chuyển giá, trốn thuế, phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp kê khai không đúng, gian lận, trốn thuế. Hạn chế tối đa việc ban hành các chính sách mới làm giảm thu ngân sách nhà nước.
Nghị quyết yêu cầu việc điều hành chi ngân sách nhà nước phải theo dự toán được giao. Tiết kiệm triệt để các khoản chi thường xuyên của từng bộ, ngành, địa phương; giảm tối đa kinh phí tổ chức hội nghị, hội thảo, khánh tiết; hạn chế bố trí kinh phí đi nghiên cứu, khảo sát nước ngoài, hạn chế mua sắm ô tô và trang thiết bị đắt tiền; từng bước thực hiện khoán xe công đối với một số chức danh. Tổ chức bầu cử Quốc hội và bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp theo tinh thần triệt để tiết kiệm; đẩy mạnh cải cách hành chính trong quản lý chi ngân sách nhà nước. Chỉ ban hành chính sách làm tăng chi ngân sách nhà nước khi thật sự cần thiết và có nguồn đảm bảo. Quản lý chặt chẽ việc ứng trước dự toán ngân sách nhà nước và chi chuyển nguồn sang năm sau. Thực hiện nghiêm Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
Điều chỉnh tiền lương từ 1/1/2016
Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội vừa thông qua cũng nêu rõ thực hiện điều chỉnh tiền lương đối với người có mức lương hưu, trợ cấp mất sức lao động dưới hai triệu đồng/tháng và trợ cấp đối với giáo viên mầm non có thời gian công tác trước năm 1995 để lương hưu của các đối tượng này đạt mức lương cơ sở, thời điểm thực hiện từ ngày 1/1/2016.
Từ ngày 1/1/2016 đến ngày 30/4/2016, tiếp tục thực hiện mức điều chỉnh đối với các đối tượng như quy định tại Nghị quyết số 78/2014/QH13 ngày 10/11/2014 của Quốc hội. Từ ngày 1/5/2016, thực hiện điều chỉnh tăng mức lương cơ sở từ 1.150.000 đồng/tháng lên 1.210.000 đồng/tháng (tăng khoảng 5%) đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang, bảo đảm thu nhập của đối tượng có hệ số lương từ 2,34 trở xuống không giảm so với mức đang hưởng; riêng lương hưu, trợ cấp ưu đãi người có công, tiếp tục giữ mức đã tăng 8% như đã thực hiện năm 2015. Giao các bộ, ngành, địa phương trên cơ sở dự toán ngân sách nhà nước được giao tự cân đối để bố trí nguồn tăng lương. Ngân sách trung ương hỗ trợ một phần tiền lương tăng thêm cho một số địa phương nghèo, ngân sách khó khăn theo quy định của Chính phủ.
Tiếp tục thu vào ngân sách nhà nước 75% số tiền lãi dầu, khí được chia nước chủ nhà, lợi nhuận của Liên doanh dầu khí Việt-Nga và tiền đọc tài liệu phát sinh trong năm 2016; số tiền còn lại (25%) để lại cho Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam đầu tư theo quy định của pháp luật.
Quản lý chi đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước phải tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Tăng cường huy động các nguồn lực trong nước và ngoài nước cho đầu tư phát triển, hoàn thiện cơ sở pháp lý để đẩy mạnh hợp tác công-tư, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế tham gia đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, nhất là khu vực nông nghiệp, nông thôn.
Phát hành 60.000 tỷ đồng trái phiếu Chính phủ để đầu tư các dự án, công trình sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ đã được Quốc hội quyết định. Kiểm soát chặt chẽ bội chi ngân sách nhà nước; trong điều hành cần có biện pháp tích cực để giảm bội chi và tăng chi trả nợ. Tăng cường kiểm tra, giám sát việc vay, sử dụng vốn vay và trả nợ, nhất là đối với các khoản vay mới, vay có bảo lãnh của Chính phủ. Tiếp tục cơ cấu lại các khoản vay của ngân sách nhà nước theo hướng tăng tỷ trọng vay trung hạn và dài hạn với lãi suất phù hợp; bảo đảm dư nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài của quốc gia trong giới hạn quy định.
Tiếp tục chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công gắn với lộ trình thực hiện tính giá dịch vụ sự nghiệp công. Đẩy mạnh việc chuyển phương thức hỗ trợ trực tiếp của Nhà nước đối với các đơn vị sự nghiệp công lập sang cơ chế đặt hàng. Thực hiện điều chỉnh giá các mặt hàng Nhà nước còn định giá theo hướng sát với giá thị trường, bảo đảm bù đắp chi phí sản xuất, kinh doanh hợp lý, thu hút các thành phần kinh tế khác cùng tham gia cung ứng dịch vụ công.
Đề nghị cân nhắc quy định cho phép nhập khẩu tàu biển cũ để phá dỡ
Thời gian còn lại của buổi làm việc sáng nay, Quốc hội thảo luận tại hội trường về dự thảo Bộ luật hàng hải Việt Nam (sửa đổi).
Qua thảo luận, cơ bản các ý kiến tán thành với Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Bộ luật hành hải Việt Nam (sửa đổi). Về phạm vi điều chỉnh (Điều 1), có ý kiến đề nghị Bộ luật hàng hải cần điều chỉnh đối với tất cả các loại tàu, thuyền hoạt động trên biển và tất cả các loại cảng biển, cảng thủy nội địa mà không nên quy định loại trừ như dự thảo Bộ luật.
Vấn đề này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải trình nêu rõ Bộ luật hàng hải chủ yếu điều chỉnh các đối tượng hoạt động hàng hải thương mại. Đối với tàu cá, giàn di động, ụ nổi, phương tiện thủy nội địa, tàu quân sự, cảng quân sự, cảng cá, cảng thủy nội địa thì hiện nay đã được điều chỉnh trong các văn bản luật khác, như Luật thủy sản, Luật giao thông đường thủy nội địa... Do đó, không thể đưa tất cả các đối tượng nêu trên vào điều chỉnh trong Bộ luật hàng hải.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, hoạt động của các loại phương tiện, cảng này có liên quan trực tiếp đến hoạt động hàng hải, nhưng lại chưa được điều chỉnh trong các văn bản pháp luật nên cần có sự điều chỉnh trong Bộ luật hàng hải. Quy định như vậy cũng là kế thừa Bộ luật hiện hành và phù hợp với các điều ước quốc tế về hàng hải mà nước ta là thành viên.
Thảo luận về trách nhiệm của thuyền trưởng khi có hành vi phạm tội trên tàu biển tại Điều 57, đại biểu Trịnh Thị Thanh Bình (Bến Tre) đánh giá việc dự thảo quy định “Khi phát hiện hành vi phạm tội quả tang trên tàu biển, thuyền trưởng có trách nhiệm sau đây: Áp dụng các biện pháp ngăn chặn cần thiết, lập hồ sơ theo quy định của pháp luật; Bảo vệ chứng cứ và tùy theo điều kiện cụ thể, chuyển giao người có hành vi phạm tội và hồ sơ cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở cảng Việt Nam đầu tiên tàu biển ghé vào hoặc cho tàu công vụ Việt Nam gặp ở trên biển hoặc thông báo cho cơ quan đại diện của Việt Nam nơi gần nhất và làm theo chỉ thị của cơ quan này, nếu tàu biển đến cảng nước ngoài” là phù hợp với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và điều kiện hoạt động của tàu biển.
Tuy nhiên để đảm bảo tính thống nhất và khả thi trong triển khai thực hiện, đại biểu Trịnh Thị Thanh Bình đề nghị dự thảo nên thể hiện theo cách khác.
“Thứ nhất không quy định trong dự thảo Bộ luật hành hải về thủ tục mà áp dụng quy định này trong Bộ luật tố tụng hình sự. Thứ hai, nếu quy định nội dung này trong dự thảo Bộ luật thì cần bổ sung trách nhiệm của thuyền trưởng trong trường hợp bắt người phạm tội quả tang, bắt người bị truy nã trên tàu biển và quy định thủ tục bắt người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người đang bị truy nã trên tàu biển trong điều kiện không thể giải ngay nghi phạm đến cơ quan điều tra, không thể thực thi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong trường hợp bắt, phê chuẩn và trong thời hạn quy định ở điều kiện không bình thường cần có quy định để đảm bảo thực hiện được,” đại biểu nêu rõ.
Về địa vị pháp lý của thuyền trưởng, khoản 1 Điều 53 quy định: “Thuyền trưởng là người có quyền chỉ huy cao nhất ở trên tàu biển, chỉ huy tàu theo chế độ thủ trưởng. Mọi người có mặt trên tàu biển phải chấp hành mệnh lệnh của thuyền trưởng.”
Tán thành với quy định này của dự thảo Bộ luật, tuy nhiên đại biểu Đàng Thị Mỹ Hương (Ninh Thuận) băn khoăn bởi tại khoản 2 của điều này lại quy định: “Thuyền trưởng chịu sự chỉ đạo của chủ tàu hoặc người thuê tàu, người khai thác tàu.” Đại biểu đề nghị cần nghiên cứu quy định tách bạch về địa vị pháp lý của thuyền trưởng khi vận hành tàu với và chủ tàu, người thuê tàu.
Đại biểu dẫn thông lệ quốc tế khi tàu thuề rời bến thì thuyền trưởng là người quyết định mọi vấn đề xảy ra trên tàu và chịu trách nhiệm pháp lý đối với các quyết định của mình. Khoản 2 quy định: “Thuyền trưởng chịu sự chỉ đạo của chủ tàu hoặc người thuê tàu, người khai thác tàu” sẽ dẫn đến sự mâu thuẫn. “Nếu tàu rời bến mà có việc gì đó thì thuyền trưởng sẽ là người tự quyết định hay là phải xin ý kiến của chủ tàu, người thuê tàu. Nếu chủ tàu, người thuê tàu chỉ đạo sai thì hậu quả pháp lý sẽ như thế nào, ai sẽ chịu trách nhiệm,” đại biểu đề nghị dự thảo cần làm rõ nội dung này.
Tại phiên thảo luận sáng nay, nhiều ý kiến của đại biểu Quốc hội còn băn khoăn về các quy định phá dỡ tàu biển (từ Điều 46 đến Điều 50). Đại biểu Lê Thị Công (Bà Rịa- Vũng Tàu) Bùi Thị An (Hà Nội) và nhiều ý kiến khác đề nghị thận trọng cân nhắc việc quy định cho phép nhập khẩu tàu biển cũ để phá dỡ tránh ảnh hưởng đến môi trường.
Giải trình rõ hơn về nội dung này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết để tránh ảnh hưởng xấu đến môi trường như ý kiến của đại biểu đã nêu, dự thảo Bộ luật đã được bổ sung thêm một mục về phá dỡ tàu biển (Mục 8 Chương II từ Điều 46 đến Điều 50) để quy định chặt chẽ đối với việc phá dỡ tàu biển. Cụ thể bao gồm quy định về điều kiện của cơ sở phá dỡ, nguyên tắc nhập khẩu, phá dỡ tàu biển đã qua sử dụng, phá dỡ tàu biển nước ngoài bị chìm đắm tại Việt Nam.
Qua các lần thảo luận, có ý kiến đề nghị nên áp dụng mô hình “Chính quyền cảng” giống như ở một số nước có ngành hàng hải phát triển để phát huy tiềm năng, thế mạnh trong khai thác cảng biển ở Việt Nam, góp phần phát triển kinh tế biển trong thời gian tới.
Nội dung này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải trình: Mô hình chính quyền cảng hiện đang được áp dụng có hiệu quả ở nhiều nước có ngành hàng hải phát triển. Đây là tổ chức có quyền tự chủ rất cao (về quy hoạch, xây dựng, cho thuê đất, cầu cảng, thực hiện một số chức năng của cảng vụ…). Tuy nhiên, đối với Việt Nam, đây là vấn đề mới, nếu áp dụng ngay sẽ gặp nhiều vướng mắc, cụ thể như việc trao một số thẩm quyền về quản lý nhà nước tại khu vực cảng cho “chính quyền cảng” nhưng chính quyền cảng lại là doanh nghiệp…
Ngoài ra, việc sử dụng cụm từ “Chính quyền cảng” sẽ gây nhầm lẫn với quy định về Chính quyền địa phương tại Điều 111 và Điều 112 của Hiến pháp. Do vậy, trong sửa đổi Bộ luật lần này chỉ mới áp dụng một số điểm của mô hình chính quyền cảng thông qua việc cho phép thành lập Ban quản lý và khai thác cảng tại một số khu vực cảng biển sẽ được đầu tư mới, nhằm khắc phục những hạn chế trong việc đầu tư, khai thác manh mún, thiếu hiệu quả như tại một số cảng biển thời gian qua, tăng cường hiệu quả của hoạt động quản lý, khai thác cảng biển.
Theo chương trình, chiều nay, Quốc hội sẽ nghe Tờ trình về dự án Luật tiếp cận thông tin và thảo luận về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự thảo Luật phí, lệ phí./.
Đại biểu Quốc hội tỉnh Cà Mau Trương Minh Hoàng phát biểu ý kiến. (Ảnh: Nguyễn Dân/TTXVN) |
Với đa số đại biểu tán thành, Quốc hội đã thông qua dự thảo Nghị quyết về dự toán ngân sách nhà nước năm 2016. Theo dự toán, tổng số thu cân đối ngân sách nhà nước là 1.014.500 tỷ đồng; nếu tính cả 4.700 tỷ đồng thu chuyển nguồn ngân sách địa phương từ năm 2015 sang năm 2016 thì tổng số thu ngân sách nhà nước là 1.019.200 tỷ đồng; tổng số chi cân đối ngân sách nhà nước là 1.273.200 tỷ đồng; mức bội chi ngân sách nhà nước là 254.000 tỷ đồng, tương đương 4,95% tổng sản phẩm trong nước (GDP).
Nghị quyết giao Chính phủ trong năm 2016 thực hiện chính sách tài khóa chặt chẽ; phối hợp đồng bộ với chính sách tiền tệ nhằm hỗ trợ phát triển sản xuất, kinh doanh, tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao hơn năm 2015.
Tăng cường kỷ luật tài chính-ngân sách, thực hiện dự toán ngân sách nhà nước đúng quy định của pháp luật. Đẩy mạnh giám sát và công khai, minh bạch việc sử dụng ngân sách nhà nước, nhất là trong các lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, lãng phí. Chỉ đạo tổ chức thực hiện tốt các luật thuế và các nhiệm vụ thu ngân sách nhà nước. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thuế, chống thất thu, ngăn chặn các hành vi buôn lậu, gian lận thương mại, sản xuất, kinh doanh hàng giả, chuyển giá, trốn thuế, phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp kê khai không đúng, gian lận, trốn thuế. Hạn chế tối đa việc ban hành các chính sách mới làm giảm thu ngân sách nhà nước.
Nghị quyết yêu cầu việc điều hành chi ngân sách nhà nước phải theo dự toán được giao. Tiết kiệm triệt để các khoản chi thường xuyên của từng bộ, ngành, địa phương; giảm tối đa kinh phí tổ chức hội nghị, hội thảo, khánh tiết; hạn chế bố trí kinh phí đi nghiên cứu, khảo sát nước ngoài, hạn chế mua sắm ô tô và trang thiết bị đắt tiền; từng bước thực hiện khoán xe công đối với một số chức danh. Tổ chức bầu cử Quốc hội và bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp theo tinh thần triệt để tiết kiệm; đẩy mạnh cải cách hành chính trong quản lý chi ngân sách nhà nước. Chỉ ban hành chính sách làm tăng chi ngân sách nhà nước khi thật sự cần thiết và có nguồn đảm bảo. Quản lý chặt chẽ việc ứng trước dự toán ngân sách nhà nước và chi chuyển nguồn sang năm sau. Thực hiện nghiêm Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
Điều chỉnh tiền lương từ 1/1/2016
Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội vừa thông qua cũng nêu rõ thực hiện điều chỉnh tiền lương đối với người có mức lương hưu, trợ cấp mất sức lao động dưới hai triệu đồng/tháng và trợ cấp đối với giáo viên mầm non có thời gian công tác trước năm 1995 để lương hưu của các đối tượng này đạt mức lương cơ sở, thời điểm thực hiện từ ngày 1/1/2016.
Từ ngày 1/1/2016 đến ngày 30/4/2016, tiếp tục thực hiện mức điều chỉnh đối với các đối tượng như quy định tại Nghị quyết số 78/2014/QH13 ngày 10/11/2014 của Quốc hội. Từ ngày 1/5/2016, thực hiện điều chỉnh tăng mức lương cơ sở từ 1.150.000 đồng/tháng lên 1.210.000 đồng/tháng (tăng khoảng 5%) đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang, bảo đảm thu nhập của đối tượng có hệ số lương từ 2,34 trở xuống không giảm so với mức đang hưởng; riêng lương hưu, trợ cấp ưu đãi người có công, tiếp tục giữ mức đã tăng 8% như đã thực hiện năm 2015. Giao các bộ, ngành, địa phương trên cơ sở dự toán ngân sách nhà nước được giao tự cân đối để bố trí nguồn tăng lương. Ngân sách trung ương hỗ trợ một phần tiền lương tăng thêm cho một số địa phương nghèo, ngân sách khó khăn theo quy định của Chính phủ.
Tiếp tục thu vào ngân sách nhà nước 75% số tiền lãi dầu, khí được chia nước chủ nhà, lợi nhuận của Liên doanh dầu khí Việt-Nga và tiền đọc tài liệu phát sinh trong năm 2016; số tiền còn lại (25%) để lại cho Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam đầu tư theo quy định của pháp luật.
Quản lý chi đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước phải tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Tăng cường huy động các nguồn lực trong nước và ngoài nước cho đầu tư phát triển, hoàn thiện cơ sở pháp lý để đẩy mạnh hợp tác công-tư, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế tham gia đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, nhất là khu vực nông nghiệp, nông thôn.
Phát hành 60.000 tỷ đồng trái phiếu Chính phủ để đầu tư các dự án, công trình sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ đã được Quốc hội quyết định. Kiểm soát chặt chẽ bội chi ngân sách nhà nước; trong điều hành cần có biện pháp tích cực để giảm bội chi và tăng chi trả nợ. Tăng cường kiểm tra, giám sát việc vay, sử dụng vốn vay và trả nợ, nhất là đối với các khoản vay mới, vay có bảo lãnh của Chính phủ. Tiếp tục cơ cấu lại các khoản vay của ngân sách nhà nước theo hướng tăng tỷ trọng vay trung hạn và dài hạn với lãi suất phù hợp; bảo đảm dư nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài của quốc gia trong giới hạn quy định.
Tiếp tục chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công gắn với lộ trình thực hiện tính giá dịch vụ sự nghiệp công. Đẩy mạnh việc chuyển phương thức hỗ trợ trực tiếp của Nhà nước đối với các đơn vị sự nghiệp công lập sang cơ chế đặt hàng. Thực hiện điều chỉnh giá các mặt hàng Nhà nước còn định giá theo hướng sát với giá thị trường, bảo đảm bù đắp chi phí sản xuất, kinh doanh hợp lý, thu hút các thành phần kinh tế khác cùng tham gia cung ứng dịch vụ công.
Đề nghị cân nhắc quy định cho phép nhập khẩu tàu biển cũ để phá dỡ
Thời gian còn lại của buổi làm việc sáng nay, Quốc hội thảo luận tại hội trường về dự thảo Bộ luật hàng hải Việt Nam (sửa đổi).
Qua thảo luận, cơ bản các ý kiến tán thành với Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Bộ luật hành hải Việt Nam (sửa đổi). Về phạm vi điều chỉnh (Điều 1), có ý kiến đề nghị Bộ luật hàng hải cần điều chỉnh đối với tất cả các loại tàu, thuyền hoạt động trên biển và tất cả các loại cảng biển, cảng thủy nội địa mà không nên quy định loại trừ như dự thảo Bộ luật.
Vấn đề này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải trình nêu rõ Bộ luật hàng hải chủ yếu điều chỉnh các đối tượng hoạt động hàng hải thương mại. Đối với tàu cá, giàn di động, ụ nổi, phương tiện thủy nội địa, tàu quân sự, cảng quân sự, cảng cá, cảng thủy nội địa thì hiện nay đã được điều chỉnh trong các văn bản luật khác, như Luật thủy sản, Luật giao thông đường thủy nội địa... Do đó, không thể đưa tất cả các đối tượng nêu trên vào điều chỉnh trong Bộ luật hàng hải.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, hoạt động của các loại phương tiện, cảng này có liên quan trực tiếp đến hoạt động hàng hải, nhưng lại chưa được điều chỉnh trong các văn bản pháp luật nên cần có sự điều chỉnh trong Bộ luật hàng hải. Quy định như vậy cũng là kế thừa Bộ luật hiện hành và phù hợp với các điều ước quốc tế về hàng hải mà nước ta là thành viên.
Thảo luận về trách nhiệm của thuyền trưởng khi có hành vi phạm tội trên tàu biển tại Điều 57, đại biểu Trịnh Thị Thanh Bình (Bến Tre) đánh giá việc dự thảo quy định “Khi phát hiện hành vi phạm tội quả tang trên tàu biển, thuyền trưởng có trách nhiệm sau đây: Áp dụng các biện pháp ngăn chặn cần thiết, lập hồ sơ theo quy định của pháp luật; Bảo vệ chứng cứ và tùy theo điều kiện cụ thể, chuyển giao người có hành vi phạm tội và hồ sơ cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở cảng Việt Nam đầu tiên tàu biển ghé vào hoặc cho tàu công vụ Việt Nam gặp ở trên biển hoặc thông báo cho cơ quan đại diện của Việt Nam nơi gần nhất và làm theo chỉ thị của cơ quan này, nếu tàu biển đến cảng nước ngoài” là phù hợp với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và điều kiện hoạt động của tàu biển.
Tuy nhiên để đảm bảo tính thống nhất và khả thi trong triển khai thực hiện, đại biểu Trịnh Thị Thanh Bình đề nghị dự thảo nên thể hiện theo cách khác.
“Thứ nhất không quy định trong dự thảo Bộ luật hành hải về thủ tục mà áp dụng quy định này trong Bộ luật tố tụng hình sự. Thứ hai, nếu quy định nội dung này trong dự thảo Bộ luật thì cần bổ sung trách nhiệm của thuyền trưởng trong trường hợp bắt người phạm tội quả tang, bắt người bị truy nã trên tàu biển và quy định thủ tục bắt người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người đang bị truy nã trên tàu biển trong điều kiện không thể giải ngay nghi phạm đến cơ quan điều tra, không thể thực thi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong trường hợp bắt, phê chuẩn và trong thời hạn quy định ở điều kiện không bình thường cần có quy định để đảm bảo thực hiện được,” đại biểu nêu rõ.
Về địa vị pháp lý của thuyền trưởng, khoản 1 Điều 53 quy định: “Thuyền trưởng là người có quyền chỉ huy cao nhất ở trên tàu biển, chỉ huy tàu theo chế độ thủ trưởng. Mọi người có mặt trên tàu biển phải chấp hành mệnh lệnh của thuyền trưởng.”
Tán thành với quy định này của dự thảo Bộ luật, tuy nhiên đại biểu Đàng Thị Mỹ Hương (Ninh Thuận) băn khoăn bởi tại khoản 2 của điều này lại quy định: “Thuyền trưởng chịu sự chỉ đạo của chủ tàu hoặc người thuê tàu, người khai thác tàu.” Đại biểu đề nghị cần nghiên cứu quy định tách bạch về địa vị pháp lý của thuyền trưởng khi vận hành tàu với và chủ tàu, người thuê tàu.
Đại biểu dẫn thông lệ quốc tế khi tàu thuề rời bến thì thuyền trưởng là người quyết định mọi vấn đề xảy ra trên tàu và chịu trách nhiệm pháp lý đối với các quyết định của mình. Khoản 2 quy định: “Thuyền trưởng chịu sự chỉ đạo của chủ tàu hoặc người thuê tàu, người khai thác tàu” sẽ dẫn đến sự mâu thuẫn. “Nếu tàu rời bến mà có việc gì đó thì thuyền trưởng sẽ là người tự quyết định hay là phải xin ý kiến của chủ tàu, người thuê tàu. Nếu chủ tàu, người thuê tàu chỉ đạo sai thì hậu quả pháp lý sẽ như thế nào, ai sẽ chịu trách nhiệm,” đại biểu đề nghị dự thảo cần làm rõ nội dung này.
Tại phiên thảo luận sáng nay, nhiều ý kiến của đại biểu Quốc hội còn băn khoăn về các quy định phá dỡ tàu biển (từ Điều 46 đến Điều 50). Đại biểu Lê Thị Công (Bà Rịa- Vũng Tàu) Bùi Thị An (Hà Nội) và nhiều ý kiến khác đề nghị thận trọng cân nhắc việc quy định cho phép nhập khẩu tàu biển cũ để phá dỡ tránh ảnh hưởng đến môi trường.
Giải trình rõ hơn về nội dung này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết để tránh ảnh hưởng xấu đến môi trường như ý kiến của đại biểu đã nêu, dự thảo Bộ luật đã được bổ sung thêm một mục về phá dỡ tàu biển (Mục 8 Chương II từ Điều 46 đến Điều 50) để quy định chặt chẽ đối với việc phá dỡ tàu biển. Cụ thể bao gồm quy định về điều kiện của cơ sở phá dỡ, nguyên tắc nhập khẩu, phá dỡ tàu biển đã qua sử dụng, phá dỡ tàu biển nước ngoài bị chìm đắm tại Việt Nam.
Qua các lần thảo luận, có ý kiến đề nghị nên áp dụng mô hình “Chính quyền cảng” giống như ở một số nước có ngành hàng hải phát triển để phát huy tiềm năng, thế mạnh trong khai thác cảng biển ở Việt Nam, góp phần phát triển kinh tế biển trong thời gian tới.
Nội dung này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải trình: Mô hình chính quyền cảng hiện đang được áp dụng có hiệu quả ở nhiều nước có ngành hàng hải phát triển. Đây là tổ chức có quyền tự chủ rất cao (về quy hoạch, xây dựng, cho thuê đất, cầu cảng, thực hiện một số chức năng của cảng vụ…). Tuy nhiên, đối với Việt Nam, đây là vấn đề mới, nếu áp dụng ngay sẽ gặp nhiều vướng mắc, cụ thể như việc trao một số thẩm quyền về quản lý nhà nước tại khu vực cảng cho “chính quyền cảng” nhưng chính quyền cảng lại là doanh nghiệp…
Ngoài ra, việc sử dụng cụm từ “Chính quyền cảng” sẽ gây nhầm lẫn với quy định về Chính quyền địa phương tại Điều 111 và Điều 112 của Hiến pháp. Do vậy, trong sửa đổi Bộ luật lần này chỉ mới áp dụng một số điểm của mô hình chính quyền cảng thông qua việc cho phép thành lập Ban quản lý và khai thác cảng tại một số khu vực cảng biển sẽ được đầu tư mới, nhằm khắc phục những hạn chế trong việc đầu tư, khai thác manh mún, thiếu hiệu quả như tại một số cảng biển thời gian qua, tăng cường hiệu quả của hoạt động quản lý, khai thác cảng biển.
Theo chương trình, chiều nay, Quốc hội sẽ nghe Tờ trình về dự án Luật tiếp cận thông tin và thảo luận về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự thảo Luật phí, lệ phí./.
(TTXVN/VIETNAM+)